Nghị quyết 68 có thể là bước ngoặt, đột phá thứ 3 trong lịch sử phát triển kinh tế tư nhân
Theo ông Phan Đức Hiếu, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế, đất nước ta đã trải qua 2 dấu mốc phát triển kinh tế tư nhân (giai đoạn 1988-1990 và từ năm 2000). Nghị quyết 68 ra đời nếu triển khai thực hiện tốt thì đây có thể là bước ngoặt, đột phá thứ 3 trong lịch sử phát triển kinh tế tư nhân.
Để phát triển kinh tế tư nhân, gốc rễ là cải cách thể chế
Chiều 9/5, chia sẻ tại Tọa đàm "Để kinh tế tư nhân bứt phá theo Nghị quyết 68 – Những việc cần làm ngay", ĐBQH Phan Đức Hiếu – Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, sự ra đời của Nghị quyết 68 là rất cần thiết và có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Những thông điệp trong nghị quyết rất rõ ràng và mạnh mẽ, đã đi thẳng vào những vấn đề của khu vực kinh tế tư nhân, giải quyết những trở ngại tồn tại lâu nay.Ông Hiếu phân tích, có 2 dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế tư nhân, đó là: Mốc thứ nhất vào giai đoạn 1988-1990 khi đó chúng ta chuyển từ quan điểm kinh tế tư nhân là thành phần cải tạo, nghĩa là không được thừa nhận, chuyển sang là được thừa nhận, và bắt đầu cho phép được hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực nhất định theo quy định của pháp luật; Mốc thứ 2 vào năm 1999-2000, là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, làm thay đổi một bước nữa về quan điểm của Việt Nam đối với khu vực tư nhân.

Theo ông Hiếu, nhìn vào Nghị quyết 68, số lượng giải pháp về cải cách thể chế là chủ đạo. Như vậy, như Tổng Bí thư nói, thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn và nếu như chúng ta tập trung cải cách mạnh mẽ về thể chế thì tác động sẽ rất lớn.

Thể chế hóa Nghị quyết phải thật rõ ràng
Liên quan đến giải pháp cụ thể để thúc đẩy KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong khu vực kinh tế tư nhân, cũng như hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và lớn, các chủ thể kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, ông Phan Đức Hiếu cho rằng, tinh thần xây dựng Nghị quyết 68 cần được tiếp tục và phát huy trong tinh thần thể chế hóa Nghị quyết của Quốc hội. Theo đó, việc thể chế hóa Nghị quyết không thể quá kéo dài thời gian, cần rất nhanh, khẩn trương và mạnh mẽ.Về phương pháp tiến hành, ông Hiếu cho rằng, có thể chia thành 3 nhóm công việc, trong đó cần xác định rõ ưu tiên nhóm nào, mức độ nào.Nhóm thứ nhất, phải sửa đổi hoặc bãi bỏ một số luật lệ, quy định. Tuy nhiên bước này không thể thực hiện ngay mà có thể cần thêm thời gian, dự kiến khoảng 7 tháng.Nhóm thứ hai, tiếp tục sửa đổi, bãi bỏ các quy định, trong bối cảnh hiện nay khi Chính phủ đã trình trên 30 dự thảo luật tại Kỳ họp thứ 9 nên chúng ta không thể chậm trễ thêm nữa. Những nội dung chưa đáp ứng yêu cầu của nghị quyết hoặc chưa được cập nhật trong các dự thảo luật, thì cần được bổ sung ngay sau khi Nghị quyết ban hành.Nhóm thứ ba, với những quy định pháp luật mà hiện chưa trình ra Quốc hội, bây giờ mới bắt đầu triển khai. Trường hợp này có thể áp dụng một Nghị quyết của Quốc hội mang tính quy phạm để tổ chức triển khai thực hiện, dự kiến sẽ trình tại Kỳ họp thứ 9. Điều quan trọng là phạm vi nghị quyết cần mở rộng để tích hợp tối đa nhóm giải pháp, vấn đề, gia tăng hiệu suất và tính thực thi của các nghị quyết do Bộ Chính trị đề ra.
