Điều chưa biết về Louis Pasteur - 'cha đẻ' của các loại vaccine đến danh hiệu 'ân nhân của nhân loại'

9:37 | 24/09/2022

Louis Pasteur là một nhà bác học nổi tiếng với những phát minh ảnh hưởng đến lịch sử nhân loại. Những phát minh của ông được nhân loại đánh giá là mở đầu cho sự phát triển của nền y học hiện đại.

Louis Pasteur là ai?

Louis Paster sinh ngày 27/12/1822 tại thành phố Dole, miền Tây nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp hạng ưu tại trường Đại học Besancon, năm 1943, Paster tiếp tục theo học vật lý và hóa học tại Đại học Bách khoa Paris, rồi bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ Khoa học.

Với những thí nghiệm của mình, ông đã công bố thuyết tạo sinh, bác bỏ thuyết tự sinh. Nhà khoa học này cho rằng nguồn gốc của sự sống phải bắt nguồn từ sự sống và con cái phải có bố mẹ sinh ra. Điều này trái ngược hoàn toàn với thuyết tự sinh vốn cho rằng sự sống bắt nguồn tự sự kết hợp của các nguyên tố hóa học vô cơ.

Trên cơ sở của thuyết tạo sinh, Louis Pasteur đã công bố lý thuyết mầm bệnh khẳng định nguồn gốc của mầm bệnh không tự nhiên sinh ra, chúng tồn tại trong vô số các vi sinh vật nhỏ tồn tại trong không khí, cơ thể…

Mặc dù Louis Paster không phải là người đầu tiên tìm ra lý thuyết mầm bệnh nhưng ông đã khẳng định chúng bằng những thí nghiệm khoa học chính xác. Ông đã đặt nền móng cho ngành vi sinh vật học, được xem như một trong số “cha đẻ của ngành vi sinh vật học” cùng với Ferdinand Cohn và Robert Koch.

Nhà bác học Louis Pasteur.

Nhà bác học Louis Pasteur.

Sự nghiệp của Louis Pasteur

Sau khi hoàn tất chương trình tiểu học, Louis Pasteur theo học tại trường trung học Collège d'Arbois. Tháng 10/1838, ông đến Paris với mong muốn thi vào trường sư phạm Paris. Tuy nhiên, sau đó Louis Pasteur đã từ bỏ mong muốn thi vào ngôi trường này.

Năm 1839, ông thi đậu vào trường Collège Royal chuyên ngành nghiên cứu triết học. Năm 1840, ông nhận bằng cử nhân văn thư (Bachelor of Letters). Trong thời gian này, ông được bổ nhiệm làm trợ giảng của trường đại học Collège Royal và tham gia khóa học về khoa học.

Năm 1842, Louis Pasteur xuất sắc nhận được bằng cử nhân khoa học của trường Collège Royal. Sau đó, ông quay trở lại Paris, thi vào trường đại học Sư phạm Paris (École normale supérieure). Tuy nhiên, bài kiểm tra đầu tiên của Louis Pasteur có thứ hạng khá thấp. Vì vậy, ông quyết định tạm dừng và thi lại vào năm sau.

Năm 1843, Louis Pasteur chính thức thi đậu vào trường đại học Sư phạm Paris. Trong thời gian này, ông tham dự các bài giảng của Jean-Baptiste-André Dumas và vinh dự trở thành trợ giảng. Năm 1845, ông xuất sắc nhận được tấm bằng cử nhân sinh học của trường đại học Sư phạm Paris. Sau đó, ông tiếp tục lấy thêm tấm bằng khoa học vật lý.

Năm 1846, Louis Pasteur tốt nghiệp và được trường Collège de Tournon mời đảm nhiệm chức vụ giáo sư vật lý. Tuy nhiên, nhà hóa học Antoine Jérôme Balard mời ông đảm nhiệm chức vụ trợ lý phòng thí nghiệm sau đại học ở trường đại học Sư phạm Paris.

Louis Pasteur đã đặt nền móng cho ngành vi sinh vật học, được xem như một trong số “cha đẻ của ngành vi sinh vật học”.

Louis Pasteur đã đặt nền móng cho ngành vi sinh vật học, được xem như một trong số “cha đẻ của ngành vi sinh vật học”.

Vốn đam mê nghiên cứu, Louis Pasteur đã đến làm việc sau lời mời của nhà hóa học Balard. Trong thời gian này, ông đã thực hiện nhiều thí nghiệm về tinh thể học. Đến năm 1847, ông hoàn thành hai bản luận án về vật lý và hóa học.

Năm 1848, Louis Pasteur giáo sư hóa học tại trường đại học Strasbourg. Vào năm 1852, ông được giữ chức chủ nhiệm bộ môn hóa học trường đại học Strasbourg. Hai năm sau, ông được chỉ định làm trưởng khoa bộ môn khoa học mới ở trường đại học Lille. Cũng trong khoảng thời gian này, Louis Pasteur đã bắt đầu những thí nghiệm đầu tiên về sự lên men.

Năm 1857, ông quay về trường đại học Sư phạm Paris và đảm nhiệm chức giám đốc nghiên cứu khoa học. Từ năm 1858 - 1867, ông nắm quyền điều hành ngôi trường này và đưa hàng loạt cải cách. Một số cải cách của ông được sinh viên đánh giá là khắt khe và dẫn đến 2 cuộc biểu tình của sinh viên.

Từ năm 1863 - 1867, Louis Pasteur đảm nhiệm chức giáo sư hóa học, vật lý, địa chất ở trường École nationale supérieure des Beaux-Art. Đến năm 1867, ông đảm nhiệm chức chủ nhiệm bộ môn hóa hữu cơ ở Sorbonne trong một khoảng thời gian ngắn. Cũng trong năm 1867, Louis Pasteur đã đề xuất xây dựng phòng thí nghiệm École Normale. Giai đoạn từ năm 1867 - 1888, ông đảm nhiệm chức vụ giám đốc của phòng thí nghiệm này và đã thực hiện nhiều thí nghiệm quan trọng tại phòng thí nghiệm École Normale.

Đến năm 1887, Louis Pasteur chính thức thành lập viện Pasteur tại Paris, với nhiệm vụ thực hiện các nghiên cứu về vi sinh vật, bệnh truyền nhiễm, vaccine. Từ năm 1887 đến cuối đời, ông giữ chức vụ giám đốc viện Pasteur.

Louis Pasteur đang thử nghiệm trên một con thỏ năm 1885.

Louis Pasteur đang thử nghiệm trên một con thỏ năm 1885.

Nhà bác học vĩ đại

Năm 1848, Louis Pasteur bắt đầu khảo sát hai loại tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên men. Ông phát hiện ra rằng, một loại dung dịch axít làm lệch ánh sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Đó là do hai loại axít trên có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc.

Từ kết quả nghiên cứu đó, Louis Pasteur đã đề ra định luật về tính bất phân đối xứng, trong đó ông khẳng định: các phân tử bất đối xứng luôn là sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông đã trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới - ngành hóa học lập thể.

Vào thời kỳ đó, để sản xuất rượu, người ta thường cho men vào nước nho hoặc một loại dung dịch củ cải đường, nhưng có những mẻ dung dịch sau khi được lên men lại trở thành dấm chua. Để khắc phục tình trạng này, Pasteur bắt đầu nghiên cứu về sự lên men của rượu.

Qua kính hiển vi, ông nhận thấy rằng, các tế bào men rượu ở dạng hình tròn rất nhỏ, nó có thể sinh sôi nẩy nở, ngay cả trong một môi trường nhân tạo thiếu khí oxy, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, các tế bào hình tròn đó đã bị các tế bào hình que lấn át.

Không dừng lại ở đó, ông tiếp tục nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng. Louis Pasteur cũng thấy sữa trở nên chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng. Từ đó, ông khẳng định, sự lên men là do các vi sinh vật gây nên.

Từ thành công này, Pasteur tiếp tục mở rộng các thí nghiệm và đã chứng minh được rằng: vi sinh vật, vi trùng ở trong không khí chính là nguyên nhân gây hư hỏng các dung dịch như nước đường, sữa, nước canh… và để bảo quản các dung dịch đó cần phải khử trùng. Nhờ phương pháp khử trùng Pasteur, ngày nay, các thực phẩm có thể lưu trữ được lâu hơn. Các công trình nghiên cứu về vi sinh vật, vi trùng của ông đã mở đường cho nhiều nhà khoa học khác tìm kiếm các vi trùng tại các phạm vi khác nhau.

Khám phá các loại vaccine

Năm 1877, Louis Pasteur đã bắt đầu thực hiện nghiên cứu vaccine bệnh tả gà. Sau khi thực hiện nuôi cấy, ông nhận thấy vi khuẩn nuôi cấy đã ít nguy hiểm, ít lây lan hơn. Đến tháng 12/1880, ông đã công bố các nghiên cứu của mình lên viện hàn lâm khoa học Pháp.

Trong những năm 1880, phần lớn dân số châu Âu sống ở các vùng nông thôn, nơi tiếp xúc với động vật có thể mang mầm bệnh dại bao gồm chó, mèo, chồn, dơi và chuột. Người dân thành phố cũng không an toàn trước căn bệnh này. Nhận thấy nếu bị chó, mèo dại cắn thì căn bệnh là vô phương cứu chữa, người nhiễm bệnh chắc chắn sẽ chết, Louis Pasteur đã dành 5 năm (từ 1880 – 1885) để nghiên cứu về vaccine phòng bệnh dại.  

Những phát minh của Louis Pasteur mang lại nhiều lợi ích cho lịch sử nhân loại.

Những phát minh của Louis Pasteur mang lại nhiều lợi ích cho lịch sử nhân loại.

Ông đã tiêm virus bệnh dại lên thỏ và làm suy yếu chúng. Trước khi được tiêm trên người, vaccine đã được thử nghiệm trên 50 con chó. Ngày 6/7/1885, vaccine bệnh dại lần đầu tiên được thử nghiệm cho cậu bé Joseph Meister 9 tuổi (người bị chó dại cắn trước đó) và thành công ngoài mong đợi. Sự thành công của loại vaccine này đã mở đầu cho hàng loạt các nghiên cứu vaccine khác.

Ngày 1/3/1886, ông đã công bố các nghiên cứu về bệnh dại trước viện Hàn Lâm khoa học Pháp và kêu gọi xây dựng cơ sở sản xuất vaccine. Năm 1888, tổng thống Pháp cho xây dựng viện Pasteur đầu tiên.

Trong năm 1877, Robert Koch lần đầu tiên tìm ra vi khuẩn gây bệnh than. Từ đó, Louis Pasteur đã bắt đầu thực hiện vô số thí nghiệm, nghiên cứu về loại vi khuẩn này. Louis Pasteur đã phát hiện ra vi khuẩn bệnh than khó bị suy yếu khi thực hiện nuôi cấy trong môi trường không khí. Tuy nhiên, ông lại nhận thấy vi khuẩn bệnh dễ dàng suy yếu ở nhiệt độ 42 độ C. Vào năm 1881, ông đã phát triển thành công vaccine bệnh than và lần đầu tiên tiêm chủng trên cừu.

Khác với vaccine đậu bò do nhà khoa học Edward Jenner khám phá, vaccine bệnh dại, tả, than hoạt động với cơ chế khác. Trong đó, các vi sinh vật đã được làm suy yếu nhân tạo và không cần tìm đến sinh vật trung gian suy yếu vi sinh vật một cách tự nhiên. Nhằm vinh danh Edward Jenner, Louis Pasteur đã đặt tên cho phương pháp tiêm chủng mới là “vaccine”.

Xứng đáng là “Vị ân nhân của nhân loại”

Louis Pasteur được tôn vinh là "cha đẻ của ngành vi sinh vật học". Ông chưa bao giờ chính thức học y khoa nhưng vẫn được xem như người thầy thuốc vĩ đại và là “Ân nhân của nhân loại”.

Ông là thành viên của rất nhiều Viện Hàn lâm tại Pháp cũng như ở nước ngoài. Nhiều ngôi làng và đường phố trên thế giới mang tên ông.

Ngày 28/9/1895, nhà bác học Louis Pasteur qua đời tại thủ đô Paris (Pháp). Rất nhiều tượng đài đã được xây dựng để tưởng nhớ đến ông. Louis Pasteur là một nhà bác học đã thực hiện được bốn lý tưởng: Niềm tin, hy vọng, lòng bác ái và khoa học. Ông xứng đáng được người đời sau ca ngợi là “Vị ân nhân của nhân loại”.

Tin cùng chuyên mục

Cặp nhung hươu có thế 'rộ lộc', giá gần bằng 1 cây vàng

Cặp nhung hươu có thế 'rộ lộc', giá gần bằng 1 cây vàng

7:46 | 26/04/2024

Gia đình ông Nguyễn Chí Công ở Hà Tĩnh đang sở hữu con hươu có cặp nhung với thế độc lạ, ước tính có trọng lượng 5kg, đã được thương lái "cọc" 65 triệu đồng, nhưng giá vẫn chưa dừng lại.

Tiêm phòng cúm có gây tác dụng phụ không?

Tiêm phòng cúm có gây tác dụng phụ không?

7:39 | 24/04/2024

Cũng như nhiều loại thuốc khác, một số tác dụng phụ khác nhau có thể liên quan đến việc tiêm phòng cúm hoặc vaccine cúm dạng xịt mũi… Việc gặp phải một số tác dụng phụ là điều bình thường.

Nam sinh nghèo rửa bát thuê đỗ ĐH Oxford hiện ra sao sau 30 năm?

Nam sinh nghèo rửa bát thuê đỗ ĐH Oxford hiện ra sao sau 30 năm?

12:00 | 23/04/2024

Từ cậu bé sống khu ổ chuột, rửa bát thuê từng ngày để sống, sau 30 năm, Vi Minh Ân trở thành doanh nhân nổi tiếng và là thành viên Ủy ban Khoa học và Công nghệ của Hạ viện Anh.

Ảnh-Video-Emagazine

Bác sĩ 'mũ nồi xanh' Việt Nam khám bệnh miễn phí cho người dân ở Bentiu, Nam Sudan

Bác sĩ 'mũ nồi xanh' Việt Nam khám bệnh miễn phí cho người dân ở Bentiu, Nam Sudan

Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 (BVDC2.4) đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa để chào mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, nhất là trong điều kiện các bác sĩ, điều dưỡng của Việt Nam đang công tác xa quê hương.