Tranh luận nảy lửa về việc ai là cha đẻ của thuốc giảm đau Aspirin

6:46 | 22/09/2022

Aspirin là một trong những loại thuốc giảm đau thông dụng nhất thế giới, nó được ưa chuộng vì dễ sản xuất, dễ sử dụng và giá thành rẻ. Tuy vậy trong nhiều năm qua câu chuyện về người sáng chế ra loại thuốc này đã gây ra rất nhiều tranh luận bởi những hiểu nhầm.

Ông tổ nghề y Hippocrates có phải là cha đẻ của thuốc giảm đau Aspirin?

Sự thật, Aspirin tương đối lành tính với cơ thể người vì chúng ta có thể hoàn toàn sản xuất loại thuốc này từ những chế phẩm tự nhiên. Một trong những thành phần chính dùng để chế tạo aspirin là chất salicin, vốn có trong nhiều loại thực vật phổ biến ở châu Âu như lá cây liễu và đào kim nương. Bỏ qua các khía cạnh liên quan đến chuyên môn y học, giống như nhiều câu chuyện mang màu sắc huyền bí khác, nguồn gốc của aspirin từ lâu đã bị phủ mờ bằng những huyền thoại về y học cổ đại.

Ngay từ những câu chuyện truyền miệng xa xưa đến thời kỳ bùng nổ mạng xã hội và Internet, chúng ta có thể đọc được một vài câu chuyện cho thấy cha đẻ của aspirin là ông tổ ngành y Hippocrates. Vô số câu chuyện được thêu dệt cho chúng ta thấy Hippocrates và các học trò đã dạy người Hy Lạp cổ đại dùng lá liễu để giảm đau trong cuộc sống thường ngày, từ đó truyền cảm hứng cho hậu thế tìm ra aspirin sau đó. Nhưng liệu điều đó có đúng hay không?

Lần lại những tài liệu cổ hiếm hoi của Hippocrates còn giữ lại đến ngày nay, các nhà khảo cổ nhận ra ông gần như chẳng đề cập gì đến tác dụng chữa bệnh của lá liễu và đào kim nương cả. Dù vậy, những huyền thoại về việc Hippocrates là cha đẻ thực sự của aspirin vẫn lưu truyền đến tận ngày nay như một luận điểm chỉ ra y học cổ đại tiến bộ hơn rất nhiều so với những gì chúng ta vẫn biết. Ở đó ta có thể thấy Hippocrates sử dụng lá liễu thay aspirin chữa bệnh thường ngày theo những cách rất đơn giản.

Cụ thể hơn, một vài câu chuyện kể Hippocrates đưa lá liễu vào đơn thuốc cho phụ nữ mắc chứng đau đầu khi làm việc. Số khác nói ông uống trà lá liễu hàng ngày để giảm chứng đau nhức cơ bắp thường gặp phải, ngoài ra còn có vài người nói Hippocrates khuyên mọi người nhai lá liễu để giảm đau. Trên thực tế, những gì Hippocrates viết về công dụng của lá liễu chỉ có đúng một điều, và nó không liên quan gì đến giảm đau cả. Ông khuyên phụ nữ đang mang thai xông khói hun từ lá liễu để tránh nguy cơ sảy thai.

Ngoài những tài liệu viết tay của Hippocrates còn lưu lại, một vài thầy thuốc cổ đại cũng đưa thân và lá liễu vào làm nguyên liệu chế tạo thuốc. Tuy nhiên không có ai nhắc đến cách dùng lá liễu để giảm đau chỉ bằng cách nhai hay chiết xuất như những câu chuyện truyền miệng thuật lại. Quan trọng hơn, loại thảo dược được Hippocrates đề cập tới là cây liễu trắng, vốn có hàm lượng salicin thấp hơn hẳn những loại thực vật cùng họ.

Hippocrates được cho là cha đẻ của Aspirin, dù thực tế không phải vậy.

Hippocrates được cho là cha đẻ của Aspirin, dù thực tế không phải vậy.

Bên cạnh đó, các nhà khoa học hiện đại đã chỉ ra aspirin chỉ thực sự có tác dụng lên người uống khi hàm lượng salicin trong đó đạt khoảng 60-120mg mỗi liều. Việc tiếp nhận lượng lớn salicin như vậy không thể thực hiện chỉ bằng những cách đơn giản như nhai lá liễu trực tiếp hoặc uống trà đun từ lá liễu. Ngoài ra, việc sử dụng thảo dược như những kẻ mạo danh Hippocrates lan truyền có thể lợi bất cập hại vì tác dụng phụ của tannin, một loại chất độc có trong lá liễu.

Cây liễu trắng được đề cập đến trong tài liệu của Hippocrates có vị đắng đặc trưng của chất tannin. Khi cơ thể người hấp thụ chất này vào cơ thể theo đường dạ dày, nó sẽ gây ra cơn đau bụng dữ dội. Điều đó cũng có nghĩa những ai muốn thử giảm đau bằng aspirin theo lời những kẻ mạo danh Hippocrates sẽ quằn quại với cơn đau bụng mà không cảm thấy triệu chứng thuyên giảm chút nào.

Để hạn chế tác dụng phụ do cây liễu trắng gây ra, một học giả La Mã cổ đại có tên Dioscorides đã viết hướng dẫn sử dụng theo hướng do ông tự điều chế và thử nghiệm. Theo lời Dioscorides, người ta có thể hạn chế tác hại gây đau bụng của lá liễu bằng cách đốt thành tro, trộn vào giấm rồi bôi lên các vết chai trên cơ thể. Cách này sẽ giúp vết chai dần mờ đi rồi biến mất theo thời gian mà không để lại vết.

Nhưng đào sâu vào cơ sở khoa học, có thể thấy ngay cả Dioscorides cũng nhầm lẫn về tác dụng của lá liễu với cơ thể người. Vết chai mờ đi hoàn toàn không nhờ chất salicin có trong lá liễu, mà đến từ tính axit của giấm. Nói cách khác, tài liệu y học cổ đại của Hippocrates và những người cùng thời với ông về cách chữa bệnh bằng lá liễu đều có độ chính xác rất thấp. Do đó, rất khó khẳng định Hippocrates là cha đẻ của thuốc giảm đau aspirin như những câu chuyện được lan truyền nhiều năm qua.

Từ những dẫn chứng chỉ ra ở trên, chúng ta có thể khẳng định Hippocrates hoàn toàn không có phương pháp nào cụ thể nhằm chế tạo ra một loại thuốc tương tự aspirin ngày nay.

Lộ diện cha đẻ thực sự của thuốc giảm đau Aspirin

Năm 1894 một nhà hoá học người Đức tên Felix Hoffmann làm việc trong một cơ sở nghiên cứu của công ty dược phẩm và hóa chất Bayer ở Elberfeld. Nhận thấy rằng việc cha của ông thường xuyên phải chịu đựng những cơn đau do viêm khớp đã thôi thúc ông tìm kiếm một chất hóa học có thể điều trị những cơn đau hằng ngày một cách an toàn.

Hoffmann bắt đầu tìm hiểu những ghi chép lịch sử và nghiên cứu liên quan đến điều trị đau, bao gồm các công trình của Hippocrates. Tài liệu cho thấy các loại thuốc làm từ vỏ và lá của cây liễu đã được sử dụng từ thời điểm đó để điều trị đau và hạ sốt. Mãi đến đầu thế kỷ 19, các nhà khoa học mới xác định hợp chất có khả năng giảm đau trong cây liễu là salicin.

Từ năm 1800 đến năm 1835, các nhà hóa học ở Đức, Pháp, Ý đã có khả năng chiết xuất salicin, chuyển đổi nó thành axit salixylic để sử dụng cho con người. Nhưng axit salixylic dễ gây kích ứng và có tác động rất tiêu cực đến dạ dày. Đến năm 1853, nhà nghiên cứu người Pháp Charles Frederic Gerhardt tìm ra cách trung hòa axit salixylic với natri và axetyl clorua. Tuy nhiên, nghiên cứu của Gerhardt đã dừng lại ở đó và không có sản phẩm nào được phát triển hoàn chỉnh.

Chân dung nhà hoá học Felix Hoffmann, cha đẻ của thuốc giảm đau Aspirin.

Chân dung nhà hoá học Felix Hoffmann, cha đẻ của thuốc giảm đau Aspirin.

Năm 1897, Hoffmann tìm hiểu các thí nghiệm của Gerhardt và nghiên cứu chúng một cách cẩn thận. Từ đó, ông tiến hành các thí nghiệm tương tự của riêng mình. Ông tìm kiếm một dạng đệm, ổn định của axit salixylic mà công ty Bayer có thể thương mại hóa trên quy mô lớn. Vào ngày 10/8/1897, ông đã thành công với nỗ lực này. Bằng cách kết hợp axit salixylic được axetyl hóa với axit axetic, ông tạo ra axit axetylsalixylic (ASA) tinh khiết với các đặc tính mong muốn cho người sử dụng. Hợp chất này có khả năng giảm sốt, giảm đau và viêm nhưng không gây khó chịu cho dạ dày của bệnh nhân.

Hoffmann thử nghiệm ASA trên cơ thể của cha mình và nhận thấy nó hoạt đông hiệu quả và an toàn. Công ty Bayer đã đăng ký sản phẩm mới của Hoffmann tại Đức với tên nhãn hiệu “Aspirin” vào năm 1899 và nhanh chóng khởi động chiến dịch tiếp thị trên toàn thế giới. Họ đặt tên cho sản phẩm bằng cách ghép nối chữ “a” trong từ axetyl, “spir” trong từ spiraea ulmaria (tên latin của loài cây dùng để chiết xuất axit salixylic), và “in” là một hậu tố phổ biến cho các loại thuốc. Ngay sau đó, Hoffmann được thăng chức giám đốc tiếp thị dược phẩm của công ty.

Công ty Bayer bắt đầu phân phối aspirin ở dạng bột cho các bác sĩ để sử dụng cho bệnh nhân. Năm 1900, Bayer giới thiệu viên nén aspirin hòa tan trong nước, và đây cũng là loại thuốc đầu tiên được bán theo hình thức này. Lúc đầu, bệnh nhân cần có chỉ định của bác sĩ để sử dụng aspirin. Nhưng đến năm 1915, người ta dùng aspirin như một loại thuốc không kê đơn, nghĩa là không nhất thiết phải có đơn thuốc. Một thời gian ngắn sau, aspirin trở thành loại thuốc phổ biến nhất thế giới.

Đức từ chối cấp bằng sáng chế cho sản phẩm ASA vì cho rằng hợp chất này không đủ tính mới, nhưng Mỹ thì ngược lại. Mỹ đã cấp bằng sáng chế số 644.077 cho Hoffmann và công ty Bayer vào ngày 27/2/1900. Công ty Bayer là nhà sản xuất độc quyền aspirin từ năm 1900 đến năm 1917. Sau khi Đức thua cuộc trong cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Bayer dần đánh mất thế độc quyền aspirin do tác động của Hiệp ước Versailles năm 1919.

Hoffmann không chỉ tổng hợp thành công ASA ở dạng ổn định, có thể sử dụng trong lĩnh vực y tế mà còn tình cờ tạo ra heroin trong quá trình axetyl hóa morphine với hy vọng tạo ra codeine [một hợp chất có nguồn gốc từ thuốc phiện]. Heroin là tên thương hiệu mà giám đốc tiếp thị của công ty Bayer đặt cho loại thuốc này. Lúc đầu, các nhà nghiên cứu chưa nhận ra được sự nguy hiểm của heroin. Trước khi tính gây nghiện ở mức cao và bản chất có hại của heroin trở nên rõ ràng, công ty Bayer đã bán rộng rãi thuốc heroin để giảm ho, giảm đau khi sinh con và điều trị chấn thương nghiêm trọng trong chiến tranh, gây mê cho bệnh nhân và kiểm soát một số chứng rối loạn tâm thần. Kể từ thập niên 1930, heroin bị cấm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Ngày nay thế giới tiêu thụ khoảng 100 tỷ viên aspirin mỗi năm (ảnh minh hoạ).

Ngày nay thế giới tiêu thụ khoảng 100 tỷ viên aspirin mỗi năm (ảnh minh hoạ).

Hoffmann trải qua một cuộc sống bình lặng sau khi chế tạo thành công thuốc giảm đau aspirin. Mặc dù ông không thu được lợi nhuận tài chính đáng kể từ bằng sáng chế aspirin, nhưng loại thuốc này đã thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên thế giới và nhanh chóng trở thành mặt hàng chủ lực trên thị trường thuốc không kê đơn. Ông qua đời tại Thụy Sĩ vào ngày 8/2/1946.

Mãi đến năm 1971, bí mật về khả năng giảm đau của aspirin mới được đưa ra ánh sáng. Năm đó, nhà khoa học John Vane phát hiện hóa chất trong thuốc aspirin ngăn chặn cơn đau bằng cách ức chế sự phát triển của prostaglandin – các axit béo không bão hòa, đóng vai trò kích thích những quá trình trong cơ thể dẫn đến tình trạng viêm cũng như giúp bộ não nhận biết vị trí của cơn đau. Vane đã được trao giải Nobel Y học cho công trình liên quan đến khám phá này vào năm 1982.

Ngoài ra, tiến sĩ Lawrence Craven đã chứng minh thuốc aspirin giúp ngăn ngừa các cơn đau tim vào năm 1948, dẫn đến quyết định của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) 50 năm sau đó [cụ thể là năm 1998], mở rộng việc sử dụng aspirin để giảm nguy cơ tử vong khi bị nhồi máu cơ tim, cũng như ngăn ngừa đột quỵ tái phát.

Aspirin còn có nhiều công dụng khác, bao gồm việc điều trị chứng đau nửa đầu, đau và viêm cơ, viêm khớp, làm giảm nguy cơ hình thành cục máu đông gây ra hiện tượng tắc động mạch, thậm chí hỗ trợ điều trị một số bệnh ung thư. Ngày nay, thế giới tiêu thụ khoảng 100 tỷ viên aspirin mỗi năm, và các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm tòi những ứng dụng mới của loại thuốc này.

Tin cùng chuyên mục

Lưu ý khi dùng các thuốc giảm đau do bệnh gout

Lưu ý khi dùng các thuốc giảm đau do bệnh gout

7:12 | 04/05/2024

Việc dùng thuốc giảm đau điều trị bệnh gout kịp thời giúp người bệnh dễ chịu, ngủ ngon hơn và giảm các nguy cơ biến chứng sau này…

Nam sinh bố tâm thần, mẹ bại liệt thủ khoa đại học Thanh Hoa hiện ra sao sau 7 năm gây sửng sốt?

Nam sinh bố tâm thần, mẹ bại liệt thủ khoa đại học Thanh Hoa hiện ra sao sau 7 năm gây sửng sốt?

8:29 | 03/05/2024

Câu chuyện truyền cảm hứng của chàng thủ khoa đại học Thanh Hoa đã khiến nhiều người cảm động.

Vì sao giá hàng hoá, dịch vụ ở Hà Nội đắt đỏ ?

Vì sao giá hàng hoá, dịch vụ ở Hà Nội đắt đỏ ?

7:19 | 03/05/2024

Tổng cục Thống kê mới đây đã chỉ ra, giá cả hàng hoá, dịch vụ sinh hoạt ở thành phố Hà Nội trở nên đắt đỏ nhất cả nước. Thậm chí liên tục nhiều năm liền, Hà Nội đã giữ vị trí “quán quân” này.

Ảnh-Video-Emagazine

Bác sĩ 'mũ nồi xanh' Việt Nam khám bệnh miễn phí cho người dân ở Bentiu, Nam Sudan

Bác sĩ 'mũ nồi xanh' Việt Nam khám bệnh miễn phí cho người dân ở Bentiu, Nam Sudan

Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 (BVDC2.4) đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa để chào mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, nhất là trong điều kiện các bác sĩ, điều dưỡng của Việt Nam đang công tác xa quê hương.