Cách phòng chống bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh

13:45 | 15/08/2022

Nhiễm khuẩn sơ sinh là bệnh nhiễm trùng xảy ra ở những trẻ mới sinh cho đến khi trẻ được 28 ngày tuổi. Để phòng ngừa nhiễm trùng sơ sinh, cha mẹ cần thực hiện những biện pháp nào để phòng tránh bệnh cho trẻ.

Trẻ sơ sinh là đối tượng đặc biệt dễ mắc các bệnh nhiễm trùng do hệ thống miễn dịch chưa phát triển đầy đủ. Nhất là ở những trẻ sơ sinh non yếu, vừa sinh ra đã phải cần nhiều thủ thuật xâm lấn vào cơ thể.

Theo các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, trẻ sơ sinh có nguy cơ nhiễm các bệnh như: Thủy đậu, viêm gan, HIV, Coxsackie, Echo virus, Liên cầu tan huyết nhóm B, Listeria, Haemophilus Influenzae, phế cầu, sốt rét. Ngoài ra, trẻ có thể nhiễm khuẩn do mẹ bị rỉ ối hoặc vỡ ối kéo dài: E.coli, Klebsiella, Pseudomonas, Proteus, Bacteria, tụ cầu, liên cầu nhóm B… Trẻ cũng có thể mắc bệnh do: Tụ cầu vàng, Phế cầu, Clostridium, trực khuẩn mủ xanh, Coliform, nấm candida. Ba tác nhân gây bệnh ở trẻ sơ sinh chính là: Vi khuẩn, virus, nấm.

Để phòng ngừa nhiễm trùng sơ sinh, các biện pháp nào được áp dụng để phòng tránh bệnh cho trẻ. Bài viết dưới đây tổng hợp các vấn đề liên quan đến bệnh nhiễm khuẩn sơ sinh giúp cha mẹ nắm bắt các biện pháp phòng ngừa cho trẻ.

1. Tác nhân gây nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh

Ba tác nhân gây bệnh ở trẻ sơ sinh chính là: Vi khuẩn, virus, nấm.

Vi khuẩn

Vi khuẩn thường gây nhiễm trùng sơ sinh sớm gồm: Liên cầu khuẩn nhóm B, Colibacille, Listéria. Ngoài ra, cũng có nhiều vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng truyền qua đường mẹ – thai nhi nhưng hiếm gặp như: Haemophilus, Méningococcus, Staphylococcus, Pneumococcus….

Vi khuẩn là một trong những tác nhân gây bệnh nhiễm khuẩn sơ sinh ở trẻ.

Vi khuẩn là một trong những tác nhân gây bệnh nhiễm khuẩn sơ sinh ở trẻ.

Virus

Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm virus trong bào thai, lúc sinh, hoặc sau khi sinh. Đa số nhiễm virus do trẻ hít hoặc nuốt phải vi khuẩn sống bình thường trong đường sinh dục của mẹ khi đi qua trong lúc sinh. Sau đó vi khuẩn hoặc virus đi vào phổi hoặc vào máu của trẻ. Một số loại virus như Herpes hay thủy đậu có thể gây ra bệnh nặng ở trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sinh non. Virus có thể đi vào máu của trẻ sơ sinh khi trẻ còn trong bụng mẹ hoặc nhiễm sau sinh nếu tiếp xúc với người mắc bệnh.

Nấm

Nấm miệng Candida là bệnh thường gặp ở trẻ em. Bình thường nấm Candida tồn tại ở da, hệ tiêu hóa, cơ quan sinh dục nữ. Trẻ em thường nhiễm nấm Candida trong lúc sinh khi mẹ bị nấm Candida âm đạo lúc mang thai. Miệng trẻ sơ sinh có pH thấp thuận lợi cho nấm phát triển. Những yếu tố thuận lợi khiến nấm ở miệng phát triển gây bệnh gồm miễn dịch trẻ chưa trưởng thành, vệ sinh răng miệng kém.

2. Dấu hiệu trẻ bị nhiễm khuẩn sơ sinh

2.1. Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm

Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là nhiễm khuẩn xảy ra trong vòng 3 ngày đầu sau sinh. (trước 72h sau sinh). Dạng lâm sàng thường gặp nhất là nhiễm trùng huyết. Triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn sơ sinh sớm bao gồm:

- Hô hấp: xanh tím, rối loạn nhịp thở, thở rên, thở nhanh > 60 lần/phút + co kéo, ngừng thở > 15 giây.

- Tim mạch: xanh tái, da nổi bông, nhịp tim nhanh > 160 lần/phút, lạnh đầu chi, thời gian hồng trở lại của da kéo dài > 3s, huyết áp hạ.

- Tiêu hóa: bú kém, bỏ bú, trướng bụng, nôn ói, tiêu chảy, dịch dạ dày ứ > 2/3 số lượng sữa bơm cử trước.

- Da và niêm mạc: da tái, nổi vân tím, phát ban, xuất huyết, vàng da sớm trước 24 giờ. nốt mủ, phù nề, cứng bì.

- Thần kinh: tăng hoặc giảm trương lực cơ, dễ bị kích thích, co giật, thóp phồng, giảm phản xạ, hôn mê.

- Huyết học: tử ban, tụ máu dưới da, xuất huyết nhiều nơi, gan lách to.

- Thực thể: đứng cân hoặc sụt cân. Rối loạn điều hòa thân nhiệt.

Trẻ sơ sinh là đối tượng đặc biệt dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn do hệ thống miễn dịch chưa phát triển đầy đủ.

Trẻ sơ sinh là đối tượng đặc biệt dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn do hệ thống miễn dịch chưa phát triển đầy đủ.

2.2 Nhiễm khuẩn sơ sinh muộn

Nhiễm khuẩn sơ sinh muộn là nhiễm trùng xảy ra sau ngày thứ 5 sau sinh. Các dạng lâm sàng chính là nhiễm trùng huyết, viêm màng não, nhiễm trùng tại chỗ (nhiễm trùng tiểu, da, rốn, niêm mạc, viêm khớp xương, viêm ruột hoại tử). Triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn sơ sinh muộn:

- Nhiễm trùng huyết: Triệu chứng tương tự như nhiễm khuẩn sơ sinh sớm.

- Viêm màng não:

+ Có thể triệu chứng riêng lẻ, không rõ ràng.

+ Sốt dai dẳng hoặc thân nhiệt không ổn định.

+ Thay đổi tri giác, thay đổi trương lực cơ, co giật, dễ bị kích thích, ngưng thở, khóc thét, thóp phồng

+ Triệu chứng màng não có thể có hoặc không.

+ Thở không đều, rối loạn vận mạch, nôn ói.

-Nhiễm trùng da

+ Nốt mủ bằng đầu đinh ghim, đều nhau, nông, lúc đầu trong sau mủ đục. Mụn khô để lại vảy trắng dễ bong.

+ Nốt phỏng to nhỏ không đều, lúc đầu chứa dịch trong nếu bội nhiễm thì có mủ đục,vỡ để lại nền đỏ, chất dịch trong lan ra xung quanh thành mụn mới.

+ Viêm da bong (bệnh Ritter): lúc đầu là mụn mủ quanh miệng sau lan toàn thân, thượng bì bị nứt bong từng mảng, để lại vết trợt đỏ ướt huyết tương.

+ Toàn thân: nhiễm trùng, nhiễm độc, sốt cao, mất nước. Có thể kèm: viêm phổi, tiêu chảy, nhiễm trùng máu.

-Nhiễm trùng rốn

+ Rốn thường rụng sớm, sưng đỏ, tím bầm, chảy mủ hoặc máu, mùi hôi, sưng tấy xung quanh.

+ Rốn thường rụng muộn, ướt, có mùi hôi, sưng tấy toàn thân.

ـ Có thể: sốt, kém ăn, trướng bụng, rối loạn tiêu hóa.

- Nhiễm trùng tiểu: Thường có vàng da. Cấy nước tiểu có vi trùng.

- Viêm ruột hoại tử: Tiêu phân máu.Triệu chứng tắc ruột, có thể có phản ứng thành bụng.

- Nhiễm trùng niêm mạc:

+ Viêm kết mạc tiếp hợp: trẻ nhắm mắt, nề đỏ mi mắt, tiết dịch hoặc chảy mủ.

+ Nấm miệng: nấm thường ở mặt trên lưỡi, lúc đầu màu trắng như cặn sữa, nấm mọc dày lên, lan rộng khắp lưỡi, mặt trong má xuống họng, nấm ngả màu vàng làm trẻ đau bỏ bú. Có thể gây tiêu chảy, viêm phổi nếu nấm rơi vào đường tiêu hóa và phổi.

3. Nhiễm khuẩn sơ sinh có nguy hiểm không?

Nhiễm khuẩn sơ sinh không điều trị kịp thời có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Bởi vì trong giai đoạn này các cơ quan của trẻ đang phát triển rất nhanh, bất kỳ sự gián đoạn nào cũng có thể dẫn đến biến chứng bao gồm khả năng tăng trưởng, phát triển về thần kinh, tim mạch, hô hấp và các vấn đề về giác quan khác. Trong một số trường hợp nhiễm trùng nặng có thể dẫn đến tử vong ở trẻ.

4. Các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn sơ sinh ở trẻ

Trước thai kỳ:

- Trước khi có ý định mang thai nên đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện các vấn đề viêm nhiễm và bệnh lý nội khoa khác để điều trị triệt để trước khi mang thai tránh nguy cơ lây nhiễm cho bé, đồng thời hạn chế được việc điều trị khi mang thai.

- Nên mang thai có kế hoạch.

- Điều trị các bệnh lý viêm nhiễm vùng kín ở cả hai vợ chồng trước khi có ý định sinh con.

Phụ nữ mang thai nên khám thai định kỳ để phát hiện những dấu hiệu bất thường và có hướng xử lý tốt nhất.

Phụ nữ mang thai nên khám thai định kỳ để phát hiện những dấu hiệu bất thường và có hướng xử lý tốt nhất.

Trong thai kỳ:

- Mang thai nên khám định kỳ theo quy định để phát hiện các bất thường sớm và có hướng xử lý tốt nhất.

- Thực hiện tiêm chủng đầy đủ trong thai kỳ.

- Trong quá trình mang thai nếu phát hiện các bất thường như ra khí hư có mùi, màu bất thường, hôi, ngứa vùng kín... phải đến gặp bác sĩ ngay, không tự ý xử lý hay dùng thuốc khi chưa có chỉ định của bác sĩ vì có thể ảnh hưởng đến thai.

- Ăn uống bổ sung đầy đủ dinh dưỡng theo hướng dẫn của bác sĩ để đảm bảo sức khỏe cũng như sức đề kháng cho cả mẹ và bé.

- Chăm sóc vệ sinh cho các bà bầu tốt.

- Tuân thủ, chăm sóc các bà mẹ theo hướng dẫn của bác sĩ để hạn chế các nguy cơ sinh non, vỡ ối sớm hay chuyển dạ kéo dài.

Trong quá trình sinh:

- Chuẩn bị phòng sinh và các dụng cụ hỗ trợ khi sinh phải đảm bảo vô trùng để hạn chế tối đa việc lây nhiễm cho trẻ sơ sinh qua các dụng cụ, bàn tay người chăm sóc hay nhiễm khuẩn trong phòng sinh.

- Quá trình sinh phải được thực hiện hỗ trợ bởi những người có chuyên môn nghiệp vụ cao để tránh các biến chứng sản khoa như sang chấn cho mẹ và bé. Điều này cũng có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm vi khuẩn sang cho trẻ trong lúc sinh.

Sau sinh:

-Khi chăm sóc cho trẻ sơ sinh mẹ (hoặc người chăm sóc khác) rửa tay sạch trước và sau khi tiếp xúc với trẻ. Điều này rất quan trọng trong việc ngăn ngừa, hạn chế khả năng lây nhiễm vi khuẩn cho trẻ.

- Đối với trẻ sơ sinh cần lưu ý trong việc chăm sóc các vùng da, rốn và mắt vì ở giai đoạn này, các vùng này rất nhạy cảm và dễ dàng bị nhiễm khuẩn.

- Đảm bảo vệ sinh phòng ốc cũng như các đồ đạc dụng cụ có thể tiếp xúc với trẻ.

- Cho trẻ bú sữa mẹ tối thiểu trong 6 tháng đầu để đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng và tăng cường đề kháng cho trẻ.

- Tiêm phòng vaccine đầy đủ cho trẻ.

- Đối với những trường hợp có nguy cơ cao như thời gian chuyển dạ kéo dài, vỡ ối trên 18 giờ, nhiễm khuẩn ối... cho trẻ dùng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn theo hướng dẫn chỉ định của bác sĩ.

Tin cùng chuyên mục

Đo huyết áp, huyết áp cao bao nhiêu thì cần dùng thuốc?

Đo huyết áp, huyết áp cao bao nhiêu thì cần dùng thuốc?

7:28 | 23/04/2024

Người bệnh cao huyết áp cần đến cơ sở y tế uy tín để kiểm tra chính xác, từ đó bác sĩ sẽ đưa ra lời khuyên thích hợp về việc có cần uống thuốc hay không.

Thời điểm đo huyết áp cho kết quả chính xác nhất, đây là những việc cần làm khi đo huyết áp tại nhà

Thời điểm đo huyết áp cho kết quả chính xác nhất, đây là những việc cần làm khi đo huyết áp tại nhà

8:27 | 21/04/2024

Để có kết quả đo huyết áp chính xác nhất, bạn nên đo vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Đa phần mọi người nên thực hiện đo huyết áp vào khoảng 30 phút từ khi thức dậy, sau khi đi vệ sinh và trước bữa sáng.

8 loại rau rẻ tiền nhưng tốt hơn thuốc bổ, người Việt nên ăn thường xuyên để kéo dài tuổi thọ

8 loại rau rẻ tiền nhưng tốt hơn thuốc bổ, người Việt nên ăn thường xuyên để kéo dài tuổi thọ

8:26 | 19/04/2024

Nếu bạn muốn sống đến 100 tuổi, chuyên gia dinh dưỡng và tuổi thọ người Mỹ cho biết có một loại thực phẩm đặc biệt mà bạn nên ăn hằng ngày, đó là rau lá xanh.

Ảnh-Video-Emagazine

Bác sĩ 'mũ nồi xanh' Việt Nam khám bệnh miễn phí cho người dân ở Bentiu, Nam Sudan

Bác sĩ 'mũ nồi xanh' Việt Nam khám bệnh miễn phí cho người dân ở Bentiu, Nam Sudan

Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 4 (BVDC2.4) đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa để chào mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, nhất là trong điều kiện các bác sĩ, điều dưỡng của Việt Nam đang công tác xa quê hương.